PVLC Thứ 2 Tuần IV Thường Niên
và Lễ Thánh Gioan Bosco 31-1

Bài Ðọc I (Năm II): 2 Sm 15, 13-14. 30; 16, 5-13a

"Chúng ta hãy trốn khỏi Absalon. Hãy để Sêmê nguyền rủa theo lệnh của Chúa".

Trích sách Samuel quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, có kẻ đến báo tin cho Ðavít rằng: "Toàn dân Israel hết lòng theo Absalon. Ðavít liền nói cùng các cận thần của ông ở Giêrusalem rằng: "Hãy chỗi dậy, chúng ta trốn đi, vì chúng ta không sao thoát khỏi tay Absalon. Các ngươi hãy ra mau đi, kẻo nó đến bắt chúng ta, gây tai hại cho chúng ta và dùng gươm giết hết dân thành". Ðavít trèo lên núi Cây Dầu, ông vừa leo vừa khóc lóc, đi chân không, đầu phủ khăn. Toàn dân theo ông cũng trùm đầu, vừa leo vừa khóc. Vậy vua Ðavít đến Bahumrim. Và này xuất hiện một người thuộc dòng họ Saolê, tên là Sêmê, con ông Giêra. Anh ta vừa đi vừa nguyền rủa, rồi ném đá Ðavít và những cận vệ của vua. Toàn thể dân chúng và tất cả binh sĩ đều đi hai bên tả hữu nhà vua. Vậy Sêmê nguyền rủa nhà vua rằng: "Hỡi kẻ khát máu, người của Bêlial, xéo đi, xéo đi! Chúa đã đổ trên đầu ngươi tất cả máu của nhà Saolê mà ngươi đã tiếm vị. Thiên Chúa đã trao vương quốc vào tay Absalon, con ngươi. Này tai hoạ hành hạ ngươi, vì ngươi là một tên khát máu". Bấy giờ Abisai con trai của Sarvia, tâu vua rằng: "Cớ sao thằng chó chết này nguyền rủa đức vua tôi? Ðể tôi đi lấy đầu nó". Vua phán rằng: "Hỡi con của Sarvia, Ta với khanh có liên hệ gì đâu? Cứ để mặc nó nguyền rủa. Vì Chúa bảo nó: 'Hãy nguyền rủa Ðavít', ai dám hỏi nó: 'Tại sao ngươi hành động như vậy?'" Và Ðavít nói với Abisai và toàn thể các cận vệ rằng: "Kìa, con trai bởi lòng ta sinh ra, mà còn tìm giết ta, phương chi con của Giêmini đây. Hãy để nó nguyền rủa theo lệnh Chúa. Biết đâu Chúa sẽ nhìn thấy nỗi khổ tâm của ta, và hôm nay, Người sẽ đổi lời dữ ra hạnh phúc cho ta". Ðavít và các cận vệ của ông cứ tiếp tục đi.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 3, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Lạy Chúa! Xin Chúa đứng lên, xin cứu vớt con! (c. 8).

Xướng: 1) Thân lạy Chúa, nhiều thay người bách hại con, nhiều thay người nổi dậy chống con. Về con, nhiều kẻ thốt ra lời: "Hết trông hắn được Chúa trời cứu độ". - Ðáp.

2) Nhưng, lạy Chúa, Chúa là thuẫn hộ thân con, là vinh quang con, Chúa cho con ngẩng đầu lên. Con lên tiếng kêu cầu tới Chúa, và Chúa đã nghe con từ núi thánh của Ngài. - Ðáp.

3) Con nằm xuống và đã ngủ ngon, rồi thức khoẻ vì Chúa đỡ nâng con. Con không kinh hãi ức triệu người ở chung quanh đồn trú hại con. Lạy Chúa! Xin Chúa đứng lên, xin cứu vớt con! - Ðáp.  

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia. 

Phúc Âm: Mc 5, 1-20

"Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ sang bờ biển bên kia, đến địa hạt Giêrasa. Chúa Giêsu vừa ở thuyền lên, thì một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra gặp Người. Người đó vẫn ở trong các mồ mả mà không ai có thể trói nổi, dù dùng cả đến dây xích, vì nhiều lần người ta đã trói anh ta, gông cùm xiềng xích lại, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích, phá gông cùm, và không ai có thể trị nổi anh ta. Suốt ngày đêm anh ta ở trong mồ mả và trong núi, kêu la và lấy đá rạch mình mẩy. Thấy Chúa Giêsu ở đàng xa, anh ta chạy đến sụp lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: "Hỡi ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với tôi có liên hệ gì đâu? Vì danh Thiên Chúa, tôi van ông, xin chớ hành hạ tôi". Nhưng Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này". Và Người hỏi nó: "Tên ngươi là gì?" Nó thưa: "Tên tôi là cơ binh, vì chúng tôi đông lắm". Và nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy.

Gần đó, có một đàn heo đông đảo đang ăn trên núi, những thần ô uế liền xin Chúa Giêsu rằng: "Hãy cho chúng tôi đến nhập vào đàn heo". Và Chúa Giêsu liền cho phép. Các thần ô uế liền xuất ra và nhập vào đàn heo, rồi cả đàn chừng hai ngàn con lao mình xuống biển và chết đuối. Những kẻ chăn heo chạy trốn và loan tin đó trong thành phố và các trại. Người ta liền đến xem việc gì vừa xảy ra. Họ tới bên Chúa Giêsu, nhìn thấy kẻ trước kia bị quỷ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng. Những người đã được chứng kiến thuật lại cho họ nghe mọi sự đã xảy ra như thế nào đối với người bị quỷ ám và đàn heo. Họ liền xin Chúa Giêsu rời khỏi ranh giới họ. Khi Người xuống thuyền, kẻ trước kia bị quỷ ám xin theo Người. Nhưng người không cho mà rằng: "Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con". Người đó liền đi và bắt đầu tuyên xưng trong miền thập tỉnh, tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm cho anh ta, và mọi người đều thán phục.

Ðó là lời Chúa.  

 

Suy nghiệm Lời Chúa  

Đức Kitô Trừ Quỉ  

Ngày Thứ Hai trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay, quyền uy trừ quỉ của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay thực sự là những gì phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này.

Đúng thế, nếu quỉ cả không thể nào đi trừ quỉ con, vì ma quỉ không thể nào tự chia rẽ nhau, như chính Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Phúc Âm Thứ Hai tuần trước, và nếu loài người vốn bị ma quỉ thống trị từ sau nguyên tội không ai có thể trừ quỉ, thì ai trừ được quỉ người đó chắc chắn phải từ Thiên Chúa là Đấng vô cùng toàn năng mà đến, hay là chính Thiên Chúa, như trường hợp của Vị Thiên Chúa Làm Người Giêsu Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay.

Thật vậy, trong các người bị quỉ ám được bộ Phúc Âm Nhất Lãm thuật lại, chưa có một trường hợp nào đầy kinh hoàng và thật khiếp sợ như trường hợp này, một trường hợp được Thánh ký Marco thuật lại trong Bài Phúc Âm hôm nay, vừa quá dữ tợn, quá mãnh liệt và quá nhiều quỉ, chứng tỏ không một con người thuần túy nào có thể trừ quỉ ngoại trừ một mình Vị Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô:

"Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ sang bờ biển bên kia, đến địa hạt Giêrasa. Chúa Giêsu vừa ở thuyền lên, thì một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra gặp Người. Người đó vẫn ở trong các mồ mả mà không ai có thể trói nổi, dù dùng cả đến dây xích, vì nhiều lần người ta đã trói anh ta, gông cùm xiềng xích lại, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích, phá gông cùm, và không ai có thể trị nổi anh ta. Suốt ngày đêm anh ta ở trong mồ mả và trong núi, kêu la và lấy đá rạch mình mẩy".

Sự kiện "một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra" và "người đó vẫn ở trong các mồ mả" (câu này bản dịch có thể bị hiểu lầm là người bị quỉ ám ở bên trong các ngôi mộ, đúng hơn là "ẩn nấp ở giữa các ngôi mộ - the man had taken refuge among the tombs") cho thấy ma quỉ đồng nghĩa với chết chóc và gây ra chết chóc (xem Gioan 8:44), mà đã là người thì tự nhiên ai cũng sợ chết và bị chết về thể lý, không ai có thể thoát chết và làm chủ được sự chết, ngoại trừ Đấng từ cõi chết sống lại là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý".

Cho dù vì kiêu ngạo ngay từ ban đầu mà đệ nhất thần trời là minh thần Luxiphe đã cùng với 1/3 thần trời trở thành ma quỉ (xem Khải Huyền 12:4,7-9), chúng sau đó đã tỏ ra biết mình, như Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy thái độ của chúng tự động tỏ ra với Đấng quyền năng hơn chúng, dù Người còn ở đằng xa, và van xin với Người là Đấng mà chúng nhận biết là ai và đừng ra tay làm khốn chúng: 

"Thấy Chúa Giêsu ở đàng xa, anh ta chạy đến sụp lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: 'Hỡi ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với tôi có liên hệ gì đâu? Vì danh Thiên Chúa, tôi van ông, xin chớ hành hạ tôi'". 

Thế nhưng, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" đến để cứu độ con người được dựng nên theo hình ảnh thần linh và tương tự thần linh (xem Khởi Nguyên 1:26-27) khỏi tội lỗi và sự chết gây nên bởi ma quỉ ngay từ ban đầu, khỏi tình trạng con người đang bị nô lệ ma quỉ và bị ma quỉ thống trị. Bởi thế Người đã ra tay trừ chúng: "Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này". 

Tuy nhiên, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, trước khi chúng xuất ra, "Người hỏi nó: 'Tên ngươi là gì?' Nó thưa: 'Tên tôi là cơ binh, vì chúng tôi đông lắm'. Và nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy". Nếu tên của một con quỉ ám người ấy là "cơ binh" thì có thể suy ra rằng: 

1- Ma quỉ là một tập thể hơn là từng cá nhân, (hoàn toàn khác hẳn với con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa nhờ đó trở thành từng cá nhân được Ngài yêu thương), nên chúng không thể tách lìa nhau, "trừ khử nhau... chia rẽ nhau" (Marco 3:23-24); 

2- Ma quỉ là một quyền lực mãnh liệt, quyền lực tối tăm, quyền lực sự dữ, quyền lực chết chóc, không gì có thể thắng nổi, (như ở nơi trường hợp người bị chúng ám được diễn tả trong Bài Phúc Âm hôm nay), ngoại trừ quyền năng của một mình Thiên Chúa.

Ma quỉ chẳng những là một quyền năng nhưng tự bản chất chúng vẫn sợ đau khổ, vẫn sợ bị trừng phạt, bởi thế, cho dù tự mình là một quyền lực hủy hoại, chúng cũng đã đề nghị với Đấng trừ chúng, đúng hơn là xin cùng Đấng không thể nào không trừ chúng, cho chúng nhập vào đàn heo ở gần đó để chúng tự dùng quyền năng chết chóc của mình mà thực hiện một hành động "tự tử" qua đàn heo ấy, còn hơn bị một tay cao thủ hơn mình như Chúa Kitô ra tay hạ sát cho đỡ bị nhục nhã:

"Gần đó, có một đàn heo đông đảo đang ăn trên núi, những thần ô uế liền xin Chúa Giêsu rằng: 'Hãy cho chúng tôi đến nhập vào đàn heo'. Và Chúa Giêsu liền cho phép. Các thần ô uế liền xuất ra và nhập vào đàn heo, rồi cả đàn chừng hai ngàn con lao mình xuống biển và chết đuối". 

Sự kiện đám quỉ xin nhập vào đàn heo đây dường như ám chỉ là ở nơi đâu vốn sống theo xu hướng về xác thịt, về đam mê nhục dục, về tham lam hưởng thụ, về những gì xấu ra tồi bại thấp hèn đều là những chỗ của ma quỉ và giành cho ma quỉ, những chỗ hết sức thuận lợi cho ma quỉ hoành hành hơn đâu hết, những chỗ ma quỉ là tác nhân mang lại chết chóc cho những tâm hồn quay cuồng theo cuộc sống buông thả như thế... 

Trường hợp của những con người sống băng hoại buông thả ấy có thể nói còn tệ hại và nguy hiểm hơn cả của trường hợp những ai bị quỉ ám nữa, vì người bị quỉ ám hoàn toàn xẩy ra ngoài ý muốn của họ, và họ không thể tự cứu mình cho đến khi được giải cứu bởi quyền lực thần linh của Thiên Chúa. Họ thật là đáng thương và cần cứu. Một khi được cứu và tỉnh lại, họ trở thành những con người tốt hơn trước, như trường hợp nạn nhân đương sự trong Bài Phúc Âm hôm nay: 

"Kẻ trước kia bị quỉ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng... Khi Người xuống thuyền, kẻ trước kia bị quỉ ám xin theo Người. Nhưng người không cho mà rằng: 'Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con'. Người đó liền đi và bắt đầu tuyên xưng trong miền thập tỉnh, tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm cho anh ta, và mọi người đều thán phục".

Về phía thành phần dân chúng nói chung và chủ nhân của đàn heo bị thiệt hại nói riêng: "họ tới bên Chúa Giêsu, nhìn thấy kẻ trước kia bị quỷ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng", đến độ, họ chẳng những không tỏ ra cảm phục "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", như dân làng Samaria của người phụ nữ tội lỗi đã "tuốn ra gặp Người" mà còn "tin vào Người" nữa (xem Gioan 4:30,39), và mừng cho nạn nhân bị quỉ ám vốn là người trong làng của mình, mà họ lại còn có một thái độ hoàn toàn phản ngược, ở chỗ họ đã tỏ ra sợ hãi Chúa Kitô, như thể họ sợ hãi quyền năng trừ quỉ của Chúa, sợ hãi hành động bị trừ quỉ gây thiệt hại cho họ... 

Phải chăng đó là lý do ma quỉ đông như "đạo binh" đã thích thú ở vùng lầy bại hoại này, một vùng đầy những ma quỉ đông như cả một "đạo binh", một sào huyệt của ma quỉ nên chúng không muốn rời bỏ một nơi béo bở như vậy, và "nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy"? 

Và cũng phải chăng sau khi thoát khỏi cảnh bị ma quỉ khống chế ở miền này, nạn nhân được trừ quỉ không muốn ở lại một miền đất như sào huyệt của ma quỉ ấy nữa, mà chỉ muốn theo Đấng đã trừ qủi cho mình, theo Đấng đã giải thoát mình, một trường hợp duy nhất trong Phúc Âm liên quan đến nạn nhân trừ quỉ muốn theo Chúa Kitô sau khi được trừ quỉ??

Nhất là phải chăng Chúa Giêsu không chấp nhận lời xin rất chân thành và tốt lành hiếm có này của nạn nhân bị quỉ ám được Người giải thoát là vì Người muốn anh ta trở thành tông đồ của Người và cho Người ở ngay vùng đất của ma quỉ này, một vùng đất dân địa phương ở đấy không muốn thấy sự hiện diện cứu độ của Người, sợ hãi quyền năng giải thoát của Người, nhờ đó, nhờ sự hiện diện gián tiếp của Người qua chứng nhân sống động là anh ta mà ma quỉ không dám hoành hành miền đất ấy nữa. Anh ta trở thành như một ấn tín cứu độ của Người ở vùng này và cho vùng đất vốn là của ma quỉ và thuộc về ma quỉ mà chính anh ta đã từng là ngai tòa ngự trị của chúng giữa vương quốc của chúng ở đấy???

Trong bài giảng cho Lễ Thứ Sáu 29/1/2016 tại Nhà Trọ Thánh Matta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh một lần nữa, trong nhiều lần khác, về tình trạng tội lỗi là những gì khả chấp còn băng hoại là những gì bất khả chấp, như trường hợp của dân làng sống ở "địa hạt Giêrasa" có thái độ sợ Chúa trên đây trong bài Phúc Âm hôm nay, khi ngài kết thúc bài giảng của mình bằng lời cầu nguyện như sau:

"Lạy Chúa, xin cứu chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi bị băng hoại. Ôi Chúa, vâng, chúng con là những tội nhân, thế nhưng không bao giờ trở thành băng hoại. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn này". 

Lời cầu nguyện này của Đức Thánh Cha Phanxicô là để kết thúc bài giảng liên quan đến Bài Phúc Âm trong ngày hôm ấy (Thứ Sáu tuần trước) về một Vua Đavít đi từ tội lỗi (ngoại tình với vợ người ta) đến băng hoại (lén lút sát hại người tôi trung của mình là chồng của một người vợ vì sợ mà ăn nằm với mình), và chính vì tội lỗi của vị vua được gọi là Thánh Vương Đavít này, cho dù vua đã tỏ ra thống hối, vua vẫn phải chịu tất cả mọi hậu quả bởi đó mà ra do chính Thiên Chúa ra tay sửa phạt vua, đúng như những gì Ngài phán qua miệng Tiên Tri Nathan trong Bài Đọc 1 Thứ Bảy tuần trước:

"Lưỡi gươm sẽ không bao giờ rời khỏi dòng dõi ngươi cho đến muôn đời, vì ngươi đã khinh dể Ta, đã cướp vợ của Uria người Hêthê làm vợ mình. Vì thế Chúa phán rằng: Từ gia đình ngươi, Ta sẽ gây nên tai hoạ đổ trên đầu ngươi. Ngay trước mặt ngươi, Ta sẽ đem thê thiếp của ngươi trao cho người khác, nó sẽ ăn ở với chúng ngay dưới ánh sáng mặt trời. Ngươi đã hành động thầm lén, còn Ta, Ta sẽ làm việc đó trước mặt toàn dân Israel và giữa thanh thiên bạch nhật".

Bài Đọc 1 hôm nay đã cho thấy những lời cảnh báo ấy của Thiên Chúa đã trở thành hiện thực và ứng nghiệm qua sự kiện nhà vua này chẳng những bị chính một trong những người con trai của mình là Absalon phản loạn mà còn bị một lê dân thường hèn dám ngang nhiên ném đá và công khai nhục mạ nữa:

"Và này xuất hiện một người thuộc dòng họ Saolê, tên là Sêmê, con ông Giêra. Anh ta vừa đi vừa nguyền rủa, rồi ném đá Ðavít và những cận vệ của vua...: 'Hỡi kẻ khát máu, người của Bêlial, xéo đi, xéo đi! Chúa đã đổ trên đầu ngươi tất cả máu của nhà Saolê mà ngươi đã tiếm vị. Thiên Chúa đã trao vương quốc vào tay Absalon, con ngươi. Này tai hoạ hành hạ ngươi, vì ngươi là một tên khát máu'".

Tuy nhiên, phản ứng của vị vua tội lỗi nhưng không đến nỗi quá băng hoại này, trái lại, đã biết thống hối và thật tình thống hối này, qua thái độ vua sẵn sàng chấp nhận bị phạm thương và nhục mạ trước mặt quần thần của vua, và không cho phép ai được đụng đến phạm nhân của vua, nhất là đã trấn an một cận vệ của mình đang nguyền rủa phạm nhân và muốn ra tay cắt đầu hắn:

"'Cớ sao thằng chó chết này nguyền rủa đức vua tôi? Ðể tôi đi lấy đầu nó'. Vua phán rằng: 'Hỡi con của Sarvia, Ta với khanh có liên hệ gì đâu? Cứ để mặc nó nguyền rủa. Vì Chúa bảo nó: 'Hãy nguyền rủa Ðavít', ai dám hỏi nó: 'Tại sao ngươi hành động như vậy?' Và Ðavít nói với Abisai và toàn thể các cận vệ rằng: 'Kìa, con trai bởi lòng ta sinh ra, mà còn tìm giết ta, phương chi con của Giêmini đây. Hãy để nó nguyền rủa theo lệnh Chúa. Biết đâu Chúa sẽ nhìn thấy nỗi khổ tâm của ta, và hôm nay, Người sẽ đổi lời dữ ra hạnh phúc cho ta". Ðavít và các cận vệ của ông cứ tiếp tục đi".

Theo tự nhiên, ai cũng sợ chết nên chẳng ai dám đụng đến kẻ có quyền giết mình như vua chúa của mình. Bởi thế, con người dám công khai ném đá vua cùng triều thần của vua và phạm thượng nhục mạ Vua Đavít trong Bài Đọc 1 hôm nay quả là điên khùng, như thể bị quỉ ám vậy, một thứ quỉ ám chỉ có thể bị trừ bằng bác ái yêu thương của một tấm lòng tan nát khiêm cung như Vua Đavít ở Bài Đọc 1 hôm nay. 

Ngược lại, cũng có thể nói Thánh Vương Đavít đã bị quỉ ám khi phạm tội ngoại tình và sát nhân, bằng không, tự bản chất vốn tốt lành, đầy tin tưởng và yêu thương của vua từ nhỏ cũng như sau này, căn cứ vào các đoạn sách Samuel trước đó thuật lại về vua trong 2 tuần vừa qua, vì thế vua cần phải được trừ quỉ, và Thiên Chúa đã thực hiện việc trừ quỉ này cho vua, chẳng những đã dùng lời nói của Tiên Tri Nathan mà còn qua những hành động và lời nói phạm thượng của một tên lê dân của vua nữa trong Bài Đọc 1 hôm nay. 

Bài Đáp Ca hôm nay như phản ảnh tâm tình đối với Thiên Chúa của Vua Đavít trong lúc vua bị đứa con mình phản loạn và bị một lê dân của mình ném đá cùng nhục mạ:

1) Thân lạy Chúa, nhiều thay người bách hại con, nhiều thay người nổi dậy chống con. Về con, nhiều kẻ thốt ra lời: "Hết trông hắn được Chúa trời cứu độ". 

2) Nhưng, lạy Chúa, Chúa là thuẫn hộ thân con, là vinh quang con, Chúa cho con ngẩng đầu lên. Con lên tiếng kêu cầu tới Chúa, và Chúa đã nghe con từ núi thánh của Ngài. 

3) Con nằm xuống và đã ngủ ngon, rồi thức khoẻ vì Chúa đỡ nâng con. Con không kinh hãi ức triệu người ở chung quanh đồn trú hại con. Lạy Chúa! Xin Chúa đứng lên, xin cứu vớt con!    

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

TN.IV-2.mp3 

Ngày 31 tháng 1

Thánh Gio-an Bốt-cô, linh mục

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 

Chào đời năm 1815 tại Cát-ten-nô-vô, giáo phận Tô-ri-nô, Gio-an đã trải qua thời thơ ấu trong hoàn cảnh khó khăn, vì thế khi làm linh mục, người dấn thân lo việc giáo dục thanh thiếu niên. Người lập dòng các tu sĩ Sa-lê-diêng và dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu để huấn luyện thanh thiếu niên về nghề nghiệp và đời sống đạo. Người qua đời năm 1888.

Noi gương Đức Giê-su và để cho tình yêu hướng dẫn

Trích thư của thánh Gio-an Bốt-cô, linh mục.

Nếu chúng ta muốn tỏ ra là người tha thiết quan tâm tới lợi ích đích thực của các học sinh chúng ta, và thôi thúc chúng chu toàn bổn phận, các con đừng bao giờ quên rằng mình đang thay mặt cho cha mẹ của lớp trẻ thân yêu này, lớp trẻ đã từng là đối tượng ưu ái khiến cha luôn bận tâm, lao nhọc, học hỏi, và thực thi tác vụ linh mục. Chúng còn là đối tượng cho toàn thể dòng Sa-lê-diêng chúng ta phục vụ nữa. Do đó, nếu chúng con muốn là những người cha đích thực của các học sinh, nhất thiết chúng con phải có tấm lòng của một người cha ; và như thế, chúng con đừng bao giờ dùng tới biện pháp cưỡng chế hay ra hình phạt cách vô lý và không công bằng, cũng đừng theo lối của người làm việc miễn cưỡng, hoặc chỉ làm vừa đủ để chu toàn phận sự của mình.

Các con rất thân mến, trong công việc giáo dục lâu dài của cha, biết bao lần cha đã phải tâm niệm về chân lý cao cả này : bực tức thì bao giờ cũng dễ hơn là nhẫn nại, doạ nạt một đứa trẻ thì dễ hơn là thu phục nó. Cha còn dám nói thêm rằng : thường chúng ta dễ theo tính kiêu căng và nóng nảy mà trừng phạt những em bướng bỉnh, hơn là lấy lòng cương nghị và hiền từ mà sửa dạy và chịu đựng chúng. Lòng bác ái mà cha xin chúng con chính là đức ái mà thánh Phao-lô đã dành cho các tín hữu mới trở lại đạo Chúa. Đức ái này đã khiến thánh nhân phải nhiều phen khóc lóc van nài khi thấy họ ít vâng lời và không đáp lại lòng nhiệt thành của người.

Khi sửa phạt, thật khó mà giữ được bình tĩnh. Nhưng đó lại là điều tối cần để không ai có thể nghĩ rằng ta làm thế vì muốn thị uy hay trút cơn nóng giận.

Hãy coi các trẻ nhỏ dưới quyền chúng ta như là con cái. Hãy dấn thân phục vụ chúng theo gương Chúa Giê-su. Người đến không phải để ra lệnh nhưng để vâng phục. Các con phải cảm thấy xấu hổ khi thấy mình lộ vẻ thống trị ; và nếu có thống trị thì cũng chỉ là để phục vụ đắc lực hơn mà thôi. Chúa Giê-su đã cư xử như thế với các Tông Đồ. Người chịu đựng sự dốt nát, thô kệch, và cả lòng trung thành yếu kém của các ông nữa. Rồi khi đối xử với các tội nhân cách nhân hậu và thân mật, Người đã làm cho lắm kẻ phải ngạc nhiên, nhiều người khó chịu, nhưng cũng khiến cho biết bao người hy vọng được Thiên Chúa thứ tha. Vì thế, Đức Giê-su bảo ta hãy học nơi Người để biết sống hiền lành và khiêm nhường trong lòng.

Bởi vì trẻ em là con cái chúng ta, nên khi phải sửa trị lỗi lầm của chúng, ta phải tránh mọi sự nóng giận, hay ít ra phải nén lòng tới độ xem ra đã hoàn toàn dập tắt được cơn nóng giận rồi. Tuyệt đối không được để cho cõi lòng sôi sục, không được có khoé nhìn khinh bỉ, không được phép dùng lời ăn tiếng nói hạ nhục một ai. Nhưng ta hãy cứ cảm thông lúc này và hy vọng vào tương lai. Như vậy, các con mới là những người cha đích thực, và sửa dạy chúng thật sự.

Trong những trường hợp trầm trọng, ta nên khiêm hạ nài xin Thiên Chúa, hơn là tuôn ra những lời lẽ vừa khiến cho người nghe phật lòng, lại vừa không ích lợi gì cho kẻ phạm lỗi.

Các con hãy nhớ rằng giáo dục là công việc của tâm hồn, nơi chỉ có Thiên Chúa làm chủ. Thế nên ta không thể đạt được gì nếu Thiên Chúa không dạy ta nghệ thuật và không trao cho ta bí quyết giáo dục.

Hãy cố gắng làm cho mình được yêu mến. Hãy vun trồng tâm tình kính sợ Thiên Chúa. Như thế, ta có thể dễ dàng mở được cánh cửa của bao tâm hồn và liên kết lại với chúng ta mà ca hát, ngợi khen và chúc tụng Đấng đã muốn trở nên mẫu mực của chúng ta, đường đi của chúng ta và gương lành cho chúng ta trong mọi sự, đặc biệt trong việc giáo dục thanh thiếu niên.

Xướng đápMc 10,13-14 ; Mt 18,5

XNgười ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người chạm tay vào chúng ; nhưng các môn đệ xẵng giọng với chúng. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông :

Đ“Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng.

XAi tiếp đón một em nhỏ như thế này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy.”

Đ“Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng.

Lời nguyện 

Lạy Chúa, Chúa đã cho xuất hiện trong Hội Thánh một người cha và một bậc thầy của giới thanh thiếu niên là thánh Gio-an Bốt-cô linh mục. Xin Chúa cũng đốt lửa yêu mến trong lòng chúng con, để chúng con biết phụng sự một mình Chúa và lo cho anh em được cứu độ. Chúng con cầu xin

 

Những thời khắc lịch sử trong cuộc đời Thánh Gioan Bosco 

- Ngày 16/8/1815: Gioan Bosco sinh tại Becchi, Castelnuovo d’Asti, nước Ý. Cha của ngài là Phanxicô Bosco và mẹ là Magarita Occhiena.


- Năm 1817: Ông Phanxicô Bosco qua đời khi Gioan Bosco mới 2 tuổi.


- Năm 1824: Giấc mơ lúc 9 tuổi mạc khải cho Gioan Bosco sứ mệnh mà Thiên Chúa kêu gọi: Giáo dục những người trẻ bị bỏ rơi và những đứa trẻ đã theo con đường xấu.


- Năm 1826: Gioan Bosco được rước lễ lần đầu.


- Năm 1827: Gioan Bosco xa nhà để làm thuê cho trang trại Moglia ở Moncucco, vì xích mích với anh Antôn, người anh cùng cha khác mẹ không muốn Gioan Bosco đi học.

- Tháng 11/1829: Trở về nhà, Gioan Bosco bắt đầu đi học ở nơi cha già Calosso, tại Morialdo.


- Tháng 11/1830: Cha Calosso qua đời. Antôn muốn lập gia đình, nên không muốn Gioan Bosco đi học ở trường công ở Castelnuovo.


- Ngày 04/11/1831: Gioan Bosco tới Chieri ở trọ và đi làm thuê bằng nhiều việc khác nhau để kiếm sống và đi học trong thời gian 10 năm.


- Năm 1833: Gioan Bosco lãnh bí tích Thêm sức tại Buttigliera d’Asti.


- Ngày 29/3/184: Tư giáo Gioan Bosco chịu chức phó tế.


- Ngày 05/6/184: Thầy Gioan Bosco chịu chức linh mục do Đức Tổng Giám mục Torino, Fransoni, trong nhà nguyện của tòa Tổng Giám mục.


- Mùa thu năm 184: Don Bosco ghi danh vào Học viện Giáo sĩ thánh Phanxicô Assisi để đào sâu các môn thần học. Thời gian này ngài tìm hiểu thành phố Torino và khám phá ra những vấn đề nghiêm trọng của giới trẻ nghèo và bị bỏ rơi, hậu quả của cuộc “Cách mạng kỹ nghệ” đang xâm nhập thành phố này.


- Ngày 08/12/184: Don Bosco gặp cậu bé Bartolomeo Garelli quê Asti, tại Valdocco, trong phòng áo của nhà thờ thánh Phanxicô Assisi. Công cuộc nguyện xá bắt đầu khởi sự.


- Ngày 12/4/1846: Nguyện xá chuyển tới khu nhà thuê của ông Phanxicô Pinardi, tại Valdocco. Nơi đây được coi như mô hình nguyện xá kiểu mẫu về sứ mệnh giáo dục Salêdiêng.


- Ngày 03/11/1846: Sau một thời gian dưỡng bệnh dài ở Becchi, Don Bosco trở về Nguyện xá, có mẹ Magaritta đi cùng. Bà đến Nguyện xá làm mẹ đám trẻ con của Don Bosco. Don Bosco thuê hai phòng để khởi sự trường học.


- Năm 1851: Don Bosco mua khu nhà Pinardi và bắt đầu xây dựng ngôi nhà thờ kính thánh Phanxocô Salê. Ngôi nhà thờ hoàn tất và được thánh hiến năm 1852.


- Ngày 26/01/1854: Don Bosco đề nghị bốn thanh niên (Rua, Cagliero, Rocchietti, Artiglia) lập nên các Salêdiêng với một lời hứa dấn thân “Thực hành đức ái với tha nhân”.


- Ngày 29/10/1854: Đaminh Saviô, một đứa trẻ thánh thiện vào Nguyện xá.


- Ngày 08/6/1856: Đaminh Saviô lập Hội Đức Mẹ Vô Nhiễm. Đó là nhóm các người trẻ cộng tác với Don Bosco để giúp đỡ và làm điều tốt cho các bạn của mình.


- Năm 1858: Don Bosco đi Roma để trình bày công cuộc của ngài cho Đức Thánh Cha Pio IX, ngài được đề nghị viết lại “Những điều kỳ diệu” vào lúc khởi đầu công cuộc ngài cho Đức Thánh Cha.


- Ngày 18/12/1859: Tu hội Salêdiêng chính thức khai sinh. Công cuộc Don Bosco có 18 Salêdiêng tiên khởi.


- Tháng 03/1864: Don Bosco xây dựng đền thờ dâng kính Mẹ Phù Hộ tại Valdocco, Tôrinô.


- Ngày 09/6/1868: Thánh hiến đền thờ Đức Mẹ.


- Ngày 05/8/1872: Don Bosco cùng với Mẹ Maria Mazza-rello thành lập Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ (FMA).


- Ngày 03/4/1874: Tòa Thánh châu phê dứt khoát Quy luật của Tu Hội Salêdiêng.


- Ngày 11/11/1875: Don Bosco khởi đầu công cuộc truyền giáo Saliêdiêng tại Patagonia, Achentina.


- Năm 1876: Don Bosco thành lập Hiệp Hội Cộng tác viên Salêdiêng.


- Năm 1880: Đức Leo XIII ủy thác cho Don Bosco việc xây dựng Đền thờ kính Thánh Tâm Chúa tại Roma.


- Năm 1887: Don Bosco đi tới Roma lần cuối cùng để thánh hiến Đền thờ Thánh Tâm Chúa. Lúc này sức khỏe của ngài đã bị suy kiệt.


- Ngày 31/01/1888: Don Bosco qua đời để lại niềm thương tiếc cho khắp nước Ý và tất cả những ai từng biết về công cuộc giáo dục giới trẻ của ngài.


- Ngày 01/4/1934: Vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh, Don Bosco được Đức Thánh Cha Pio XI tôn phong hiển thánh.


- Ngày 24/01/1989: Don Bosco được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên bố ngài là “Cha và Thầy của giới trẻ”

 https://www.songtinmungtinhyeu.org/index.php?open=contents&id=873

 

 ThanhGioanBosco.mp3 

 https://youtu.be/0hYiZSPVIc0